Vai trò của triết học trong đào tạo pháp lý

Vai trò của triết học trong đào tạo pháp lý

Dù là môn học bắt buộc từ rất sớm ở mọi ngành thuộc cấp bậc đại học, nhưng phương pháp và mục tiêu giảng dạy với chỉ duy nhất một chân lý và những người không đồng thuận với chân lý ấy là những kẻ “phản tiến bộ” nhanh chóng biến triết học trở thành môn học phản khoa học nhất ở Việt Nam.

Vậy phương pháp giảng dạy triết học là gì? Triết học thật sự vận dụng vào nghiên cứu pháp lý như thế nào?

***

Đào tạo và nghiên cứu pháp luật tại Hoa Kỳ trong hơn 150 năm qua đã phát triển với vai trò trung tâm của kinh tế học, tâm lý học hay sử học, bên cạnh các nguyên tắc học thuật khác. Trong đó, môn học mà theo quan điểm của người viết không được chú ý nhiều nhất, lại chính là Triết học.  Ơ bên kia Đại Tây Dương, nghiên cứu triết học về pháp luật đang dần trở thành điểm nhấn quan trọng của nền giáo dục pháp luật theo cả truyền thống pháp luật Anglophone (Thông luật Anh) hay truyền thống pháp luật lục địa.

Vào những năm 1960 và 1970, Đại học Chicago mới bắt đầu áp dụng kỹ thuật phân tích kinh tế trong pháp luật do đại học này phát minh cho thế hệ sinh viên đang theo học. Nhưng ngay từ những lớp học luật được khai giảng cách đây hơn một thế kỷ, “luật học” – “Jurisprudence” (triết học pháp lý) là một trong số hàng tá các khoá học cung cấp cho những sinh viên khóa đầu tiên. Và quả thực, Chicago cũng là trường luật đầu tiên đã chỉ định một Tiến sĩ triết học trở thành giáo sư giảng dạy mà không cần trình độ luật vào thập niên 30. Tại sao lại như vậy?

Lời giải thích dưới đây sẽ phần nào làm rõ được bản chất của triết học như là một nguyên tắc cấp thiết trong đào tạo pháp lý và làm rõ được mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật và triết học.

Môn học của lý lẽ và khái niệm

Đầu tiên và quan trọng nhất, pháp luật là một môn học mang nguyên tắc biện luận: luật sư và các thẩm phán luôn sống trong khuôn khổ của lý lẽ và khái niệm. Chúng ta giải thích pháp luật và án lệ, liên kết những quy định để điều chỉnh hành vi và tranh luận về phương thức áp dụng chúng trong một số vụ án cụ thể. Thẩm phán viết ra những quan điểm và đưa ra lập luận cho những kết luận của họ. Luật sư đưa ra những luận cứ để thuyết phục thẩm phán. Ngay cả những luật sư chưa từng tranh luận tại phiên toà vẫn phải đối mặt với những quy định, ý nghĩa và hệ quả của nó.

Triết học, trong tương quan, là môn học biện luận “thượng đẳng”. Nhà triết học người Anh John Campbell (hiện đang giảng dạy tại Berkeley) với nhận định nổi tiếng và sâu sắc của mình đã từng so sánh triết học như là “dòng suy nghĩ chậm” (“thinking in slow motion”). Thực hành pháp luật, đặc biệt là trong những cuộc tranh luận trước toà lại là những “dòng suy nghĩ đối ứng nhanh” (“thinking in fast motion”), nhưng thực tế cả hai lĩnh vực triết học và luật học đều liên quan đến tư duy lý trí và logic.

Việc hành nghề pháp luật thường đòi hỏi phải chú ý nhiều đến kỹ năng hùng biện và thuyết phục hơn là triết lý, ít nhất bắt đầu từ thời đại của các Triết Gia vào thế kỷ thứ 5 TCN. Tuy nhiên, hàm ý miệt thị “phép hùng biện” xuất phát từ việc Plato thành công phỉ báng những triết gia hùng biện không nên là lí do gây nhầm lẫn cho chúng ta: thuyết phục vẫn luôn là một loại nghệ thuật triết học và nghệ thuật ấy chỉ bị mài mòn bởi những quy tắc logic chính thống hay không chính thống.

Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã khẳng định trong vụ Old Chief v. U.S (1997) rằng “một tam đoạn luận không phải là một câu chuyện, và một ý tưởng được đề xuất có phần thẳng thắn trong phòng xét xử có thể không tương thích với những bằng chứng mạnh mẽ được sử dụng để làm sáng tỏ nó, nhưng vẫn đủ tính thuyết phục” (Ý chỉ hình thức bên ngoài của lập luận tại tòa không quan trọng bằng sự thật khách quan ủng hộ lập luận đó – ND)

Ngay cả khi nhìn nhận sự khác biệt thực tế giữa lập luận pháp lý và lập luận triết học, mối quan hệ giữa chúng cũng đủ rõ ràng đến mức hệ thống giáo dục pháp luật Hoa Kỳ lấy ý tưởng cho hầu hết các phương pháp sư phạm nổi tiếng của mình từ triết học (Phương pháp Socratic). Giảng viên luật đặt câu hỏi và tranh luận sòng phẳng với sinh viên, như Socrates chất vấn và tranh luận với công dân Athens về bản chất của kiến thức và công lý. Phương pháp này được cho là để minh hoạ và giảng dạy những kỹ năng tranh luận mà công việc luật sư cần phải có.

Socrates-and-students-2

Tranh vẽ Socrates đang cùng tranh luận với các học trò của mình. Ảnh: Họa sĩ Johann Friedrich Greuter, 1590.

Câu trả lời của triết học về những lằn ranh pháp lý

Tuy nhiên, việc cân nhắc triết học với vai trò là một môn học liên kết bản thân nó với tất cả sự vật hiện tượng, kể cả khoa học, nghệ thuật, đạo đức hay pháp luật, cũng quan trọng không kém. Chúng ta luôn có thể hỏi rất nhiều thứ liên quan đến mọi lĩnh vực về hoạt động của con người, như “Bản chất của nó là gì? Điều gì làm nên nó? Nó là gì?”. Nhiều triết gia đã đặt những câu hỏi về lĩnh vực khoa học, nghệ thuật và cả luật pháp. Đây là lý do vì sao “Luật học” – triết học về bản chất của pháp luật và lý luận pháp lý, và sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức – đã trở thành một trụ cột trong mọi giáo trình luật, mỗi khi luật được giảng dạy ở các bậc đại học. Quả thật, đây là một môn học bắt buộc đối với mọi sinh viên luật tại Oxford và hầu hết các sinh viên luật ở Châu Âu và Nam Mỹ. (Luật là môn học cho bậc cử nhân, không giống như tại Mỹ, nó là chương trình sau đại học).

Như nhiều phạm vi ảnh hưởng khác của truy vấn triết học, truy vấn triết học trong pháp luật, một cách đơn giản, đưa ra ánh sáng và làm rõ những vấn đề mà trước đó thường được cho là hoàn toàn và không thể tranh cãi. Tất cả chúng ta đã từng nghe ai đó chỉ trích quyết định của Tối cao pháp viện là “theo động cơ chính trị, hơn là áp dụng chính xác pháp luật”. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta nhận biết được lằn ranh giữa pháp luật và chính trị, chính xác như những gì mà một phần phạm vi của “Luật học” cố gắng điều chỉnh. Vì vậy, khi các nhà bình luận chỉ trích lập luận của thẩm phán để đưa ra quan điểm của mình, họ luôn đặt giả định về những lập luận về bản chất của pháp luật, giải thích pháp luật và tính chất của lý luận pháp lý. Đó chính là nhiệm vụ của luật học nhằm mang những giả định vào phạm vi điều chỉnh để kiểm soát.

Triết học và các đóng góp vào hệ thống tư pháp

Truy vấn triết học cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của luật pháp. Hans Kelsen và H.L.A Hart, hai triết gia vĩ đại người Áo và người Anh sống cách đây hàng trăm năm đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến pháp luật. Tác phẩm về luật học của Kelsen đã thể hiện đóng góp đáng kể của ông vào sự phát triển của nền pháp luật nói chung trên thế giới, bao gồm cả việc thành lập “Toà Bảo Hiến”. Cơ quan này chịu trách nhiệm về giám sát tính hợp hiến của việc ban hành pháp luật, một mô hình được áp dụng ở khắp các quốc gia có nền pháp luật dân sự trên thế giới. Thông qua việc mở rộng tầm ảnh hưởng triết lý thực dụng của John Stuart Mill, Hart từng là lực lượng tri thức đầu tàu trong việc xoá bỏ kết án đối với đồng tính luyến ái ở Anh vào những năm 1960.

Trong môi trường học thuật, các nhà triết học đã có những tác động đáng kể đến nền học thuật pháp lý . Khi mô hình phân tích kinh tế pháp lý của trường Đại học Chicago ngự trị mảng pháp luật hàn lâm từ những năm 70, những triết gia như Ronald Dworkin và người đồng môn Chicago của tôi là Martha Nussbaum có một cách tiếp cận khác về pháp luật với thuyết “tối đa hoá thịnh vượng” như là mục tiêu cuối cùng của những chế định pháp lý.

Một số tác phẩm triết học của bản thân người viết đã chứng minh sự hiểu biết sâu sắc về luật học của những người theo chủ nghĩa Pháp Lý Thực Chứng kiểu Mỹ – những người đã có tác động sâu sắc đến hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và mô hình đào tạo pháp luật đã thảo luận ở trên – bằng cách tái cơ cấu vị trí triết học của họ và chống lại những chỉ trích của Hart. Trong hai mươi năm giảng dạy triết học pháp lý, bao gồm Chủ nghĩa Pháp Lý Thực Chứng kiểu Mỹ, người viết không khỏi kinh ngạc bởi số lượng sinh viên nhận thấy tính “thực tế” của khóa học này, không chỉ vì nó cung cấp các thông tin về những quy định của pháp luật, mà bởi vì nó giúp các sinh viên hiểu về lý luận pháp luật và cách thức thẩm phán đưa ra quyết định trong các vụ việc cụ thể, cũng như tạo cơ hội để mở rộng thứ giới hạn tuyệt đối của các học giả và người hành nghề luật.

Nhà triết học David Hills của đại học Stanford, nổi tiếng với câu nói cho rằng triết học là “những nỗ lực vụng về để giải đáp những câu hỏi thường đến với trẻ con, thông qua phương pháp tự nhiên mà các luật sư thường sử dụng”. Trẻ em thường không thắc mắc về sự khác nhau giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức, hay giữa sự chứng minh và lời bào chữa trong luật hình sự, nhưng luật sư và sinh viên luật thì có. Với những phương pháp của các nhà triết học, vốn tự nhiên gần gũi và không thể nghi ngờ sẽ tiếp tục được áp dụng ở những nơi nào dạy luật.

***

Nguồn bài viết

Why Philosophy Has Been Central to Legal Education for More Than a Century

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.