Tòa Thái Lan đồng ý dẫn độ Y Quynh Bđăp; Trung Quốc tấn công tàu cá Việt Nam trên Biển Đông
Các sự kiện nổi bật: * Tòa Thái Lan đồng ý dẫn độ Y Quynh Bđăp về Việt Nam chịu án.
Sau khi Luật Khoa đăng bài viết “Bạn có thể nghi ngờ Bill Gates. Nhưng có một sự thật khác ta phải chấp nhận”, nhiều độc giả đã có nhiều ý kiến trái chiều về nội dung bài viết. Tác giả Trần Minh Triết giải thích rõ hơn luận điểm niềm tin trong bài viết dưới đây, hầu độc giả.
***
Hai quần đảo mà người Việt Nam gọi là Trường Sa và Hoàng Sa là một thực tại khách quan, một sự thật có thể kiểm chứng được bởi bất kỳ ai bằng các giác quan nếu muốn. Một nhà nhiếp ảnh có thể chụp được những bức ảnh quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ trên không, một nhà thám hiểm có thể đi tàu ra hai quần đảo (nếu chính quyền đang kiểm soát các hòn đảo trên hai quần đảo đó cho phép).
Tuy nhiên, tuyên bố “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” là một niềm tin của người Việt Nam và những người ủng hộ cho tuyên bố đó.
Rất nhiều người Việt Nam đang đấu tranh cho niềm tin đó bằng nhiều phương cách khác nhau, từ việc tổ chức các cuộc hội thảo về chủ quyền biển đảo cho đến việc tranh luận, phản bác ý kiến của các tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của hai quần đảo này.
Làm thế nào để phân biệt được đâu là sự thật đâu là niềm tin?
Sự thật khách quan thì không phụ thuộc vào quan điểm của người quan sát, bạn có thể là người Mỹ hay người Việt Nam nhưng bạn không thể phủ nhận những bức ảnh chụp hai quần đảo. Mắt bạn có thể nhìn những mảnh đất, tai bạn có thể nghe gió biển, chân bạn có thể đặt lên các vùng đảo… đó là sự thật mà bất kỳ ai, cho dù có niềm tin rất khác nhau về chủ quyền của hai quần đảo đó thuộc về quốc gia nào, cũng đều có thể kiểm chứng được.
Niềm tin tập thể là điều chỉ tồn tại khi nhiều người cùng có chung một niềm tin vào một việc gì đó, niềm tin sẽ biến sự tưởng tượng thành hiện thực. Nếu người Việt Nam tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì người Việt Nam mới chấp nhận hy sinh tính mạng và xương máu để bảo vệ cho niềm tin đó. Nhiều chiến sĩ Việt Nam đã tử trận để bảo vệ cho niềm tin Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Không có gì thuyết phục người khác hơn bằng việc hy sinh tính mạng cho một niềm tin. Việc hy sinh đã biến sự tưởng tượng trở thành hiện thực.
Nếu bạn thực sự tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, bạn hãy sống và chết cho niềm tin đó, bạn hãy làm chứng cho niềm tin đó.
Niềm tin Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam là một niềm tin quan trọng trong việc đoàn kết người Việt Nam. Người Việt Nam thuộc các phe nhóm khác nhau có thể bất đồng quan điểm với nhau về sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, nhưng đối với niềm tin Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì “sông có thể cạn, nước có thể mòn” nhưng niềm tin đó là chân lý không bao giờ thay đổi.
Niềm tin càng có giá trị khi càng có nhiều người tin vào nó và nó được lặp đi lặp lại bằng nhiều cách khác nhau như các khẩu hiệu tuyên truyền, sách giáo khoa, báo chí, truyền hình, thơ ca, văn học, điện ảnh, kịch nghệ…
Những người cộng sản đã làm tốt việc tuyên truyền cho người dân Việt Nam có niềm tin vào sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng trong mọi lĩnh vực của đất nước Việt Nam. Những người có niềm tin mãnh liệt vào tuyên bố “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” cũng cần học hỏi những người cộng sản.
Sứ mệnh truyền bá niềm tin “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” là công việc dễ dàng đối với đối tượng là người Việt Nam nhưng lại rất khó khăn đối với những người không phải là công dân Việt Nam. Nó giống như chủ nghĩa cộng sản rất khó khăn để truyền bá cho các quốc gia tư bản chủ nghĩa như Mỹ, Anh, Pháp.
Làm thế nào để nhiều người trên thế giới có chung một niềm tin “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” là một câu hỏi khó cần có giải pháp.
Đầu tiên, niềm tin đó cần được thống nhất trong suy nghĩ của người Việt Nam từ những chính trị gia cao cấp nhất cho đến người dân bình thường. Rất khó để thuyết phục một người chưa có niềm tin để họ tin vào điều bạn tin nếu bạn không thật sự tin tưởng vào điều đó. Nếu người Việt Nam không có niềm tin sâu sắc thì khó lòng thuyết phục được người khác tin vào điều người Việt Nam tin.
Thứ hai, niềm tin cần phải được hiện thực hoá qua tranh ảnh, bản đồ, sách báo, phim ảnh, kịch nghệ, văn học, thơ ca, điêu khắc… Tất cả mọi người Công giáo đều tin rằng Chúa Giê-su đã chịu chết trên cây thập giá khi họ nhìn thấy biểu tượng thập giá mỗi khi đi nhà thờ. Trẻ con tin rằng ông già Noel là có thật khi mỗi dịp Noel tới chúng nhìn thấy ông già Noel ở khắp mọi nơi. Niềm tin vào tự do của Mỹ được truyền bá khắp thế giới thông qua các bộ phim Hollywood.
Thứ ba, niềm tin cần được củng cố bằng cách nhân chứng sống động. Những nhân chứng sống động nhất đó là những người đã hy sinh vì niềm tin. Sự tôn vinh ở tầm vóc quốc gia đối với những chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ hai quần đảo là điều cần thiết để củng cố niềm tin.
Thứ tư, niềm tin muốn lan toả ra thế giới cần có những người nhận trọng trách truyền bá niềm tin đó cho những người chưa tin. Đó là những sứ giả loan báo chủ quyền biển đảo của quốc gia ra thế giới. Sứ giả đó thường là những trí thức có niềm tin mạnh mẽ vào chủ quyền biển đảo, có khả năng thuyết phục tốt đối với những người chưa có niềm tin.
Thứ năm, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hơn Trung Quốc nhiều về mặt diện tích lẫn dân số, niềm tin của người Việt Nam chỉ có thể tạo nên sức mạnh vượt trội so với Trung Quốc khi trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật của Việt Nam cao hơn hẳn so với Trung Quốc để tạo nên vị thế cân bằng trên bàn đàm phán chủ quyền quốc gia.
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.