Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: Quốc gia 15 tháng

Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: Quốc gia 15 tháng

Cách đây hơn 40 năm, có một quốc gia từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam trong chưa đầy 15 tháng và ít được sử sách sau này nhắc tới.

13:30 phút ngày 30/4/1975, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà (VNCH), Dương Văn Minh, tuyên bố đầu hàng “quân giải phóng miền Nam Việt Nam” và kêu gọi binh sĩ của quân lực Việt Nam Cộng hoà buông vũ khí.

Lực lượng quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong tuyên bố đầu hàng này chính là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (Mặt trận). Tên tiếng Anh của lực lượng này là National Liberation Front, thường được gọi tắt là NLF trong các văn bản quốc tế.

Mặt trận còn được xem là lực lượng nòng cốt của một chính thể thứ ba tại Việt Nam trong chiến tranh, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CPCM).

Trong khi quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và VNCH trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, thì vai trò cũng như sự nhìn nhận quốc tế đối với chính thể thứ 3 trong giai đoạn này phức tạp hơn.

Ngoài ra, đối với người Việt Nam, thì cả Mặt trận lẫn CPCM hầu như đều bị cả hai phe Quốc gia và Cộng sản xem như là một phần của quân đội và nhà nước Bắc Việt trong và sau cuộc chiến.

Tuy nhiên, chính sự hiện diện của Mặt trận và CPCM trong lịch sử Việt Nam đã giúp khẳng định rõ hơn việc lãnh thổ Việt Nam đã từng hiện diện hai quốc gia trong vòng trên dưới 22 năm, từ 7/1954 – 7/1976.

Những chiếc xe tăng tiến vào Sài Gòn và chiếm dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 mang cờ nửa xanh nửa đỏ của Mặt trận. Ảnh: Francoise De Mulder—Roger Viollet/Getty Images.
Cánh tay nối dài của miền Bắc

Sau khi Hiệp định Geneva 1954 tạm thời chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17, quyền quản lý miền Nam Việt Nam được thế giới công nhận thuộc về thể chế VNCH.

Mặt trận được thành lập ngày 20/12/1960. Họ tự tuyên bố là một liên minh chính trị của những người đối lập với chính quyền VNCH tại miền Nam Việt Nam, bao gồm những người Cộng sản tại miền Nam (chiếm đa số) và những người thuộc các đảng phái chính trị khác. Ngoài ra, Mặt trận còn kêu gọi tất cả những ai có tư tưởng chống Mỹ tham gia.

Mục tiêu của Mặt trận là lật đổ chế độ VNCH, không chấp nhận sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Việt Nam, và tiến hành thống nhất hai miền Nam-Bắc. Đối với quốc tế, Mặt trận luôn luôn đề cao tính trung lập của mình đối với cả VNCH lẫn VNDCCH trong vai trò hòa giải và thống nhất quốc gia.

Mặc dù vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, các văn kiện của đảng Lao động (tức đảng Cộng sản) Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 cho thấy sự chỉ đạo toàn diện của đảng Cộng sản đối với Mặt trận. Bà Nguyễn Thị Bình, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của CPCM, được kết nạp vào đảng Cộng sản năm 1948, từng ra Bắc làm việc sau năm 1954 và được phái trở lại miền Nam năm 1962, sau này làm tới chức Phó Chủ tịch nước của Việt Nam thống nhất.

Đến 8/6/1969, Mặt trận cùng với Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, tiến hành thành lập chính phủ riêng, lấy tên là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, và công khai đối lập với chế độ VNCH.

Đại hội thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngày 6-8/6/1969 tại Tây Ninh. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Cần phải nói thêm, do cần thu hút những thành phần bất đồng chính kiến và các tổ chức chính trị phi cộng sản tại miền Nam tham gia vào Mặt trận mà Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã được thành lập. Lực lượng quần chúng này bao gồm rất nhiều thành phần trong xã hội, ví dụ như sinh viên, học sinh, trí thức, nhà văn, nhà báo, lãnh đạo các tôn giáo, v.v.

Qua đó, Mặt trận đã mở rộng cả mục tiêu hoạt động của mình lẫn thành phần tham gia, và điều này đã giúp cho họ thoát khỏi những cáo buộc là tổ chức vũ trang của đảng Cộng sản, cũng như tái khẳng định tính trung lập và vị thế của một liên minh chính trị đối lập với chính phủ VNCH tại miền Nam.

Tìm kiếm sự công nhận và tính chính danh đối với cộng đồng quốc tế

Sau khi thành lập chính phủ lâm thời vào năm 1969, Mặt trận và CPCM tăng cường vận động quốc tế để khẳng định tính chính danh của mình. Vào thời điểm tháng 11/1969, CPCM đã được 28 nước công nhận. Nhưng đa số các nước đó thuộc về khối cộng sản trong thời kỳ chiến tranh Lạnh.

Trong giai đoạn 1969-1975, CPCM luôn luôn công nhận sự độc lập và tự chủ về lãnh thổ quốc gia tại miền Nam Việt Nam, ngay cả đối với VNDCCH.

Khi tham gia vào hòa đàm Paris và tuy là một trong 4 bên của Hiệp định Paris 1973, nhưng CPCM chỉ được công nhận là một trong hai phe của miền Nam Việt Nam.

Hiệp định Paris 1973 công nhận có hai chính quyền (two governments) song song tồn tại và đối lập với nhau tại miền Nam Việt Nam: chính quyền Sài Gòn của VNCH và CPCM.

Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Chưa rõ nguồn.

Cả hai chính quyền đều có cơ quan hành chính và quân đội riêng, kiểm soát các phần lãnh thổ khác nhau tại miền Nam. Cả hai đều có các nghĩa vụ quốc tế riêng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được xem là chỉ có hai quốc gia (two states), Bắc Việt và Nam Việt.

Quan điểm chung của thế giới vào thời điểm ấy có thể được tóm tắt trong tuyên bố sau đây của Bộ Ngoại giao Úc năm 1974:

“Khi Việt Nam được chia đôi vào năm 1954, hai quốc gia đã được thành lập và hai nhà nước được hình thành. Nhà nước Úc đã công nhận từ rất lâu việc hiện hữu của hai quốc gia và vẫn đang có mối quan hệ với cả hai nhà nước, nhà nước VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam và nhà nước VNCH ở miền Nam Việt Nam. Cả hai nhà nước là thành viên của Hiệp định Paris (1973) cùng với CPCM. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhà nước Úc ủng hộ việc công nhận một quốc gia thứ ba với nhà nước riêng (tức là CPCM).”

Vì vậy, CHMNVN đã bị từ chối khi họ nộp đơn xin tham gia vào các hiệp nghị của Công ước Geneva 1949 tháng 12/1973 do gặp sự phản đối từ một số nước không công nhận tư cách “quốc gia” của họ.

Thế nhưng, nỗ lực tìm kiếm sự công nhận của quốc tế của CPCM vẫn được tiếp tục. Bộ Ngoại giao của CPCM đã thành lập phái đoàn thường trực với trụ sở tại Paris, Pháp.

Tài liệu lưu trữ của Liên Hiệp Quốc cho thấy vào tháng 1/1975, chính phái đoàn thường trực này đã gửi thư lên LHQ và lên án chính quyền VNCH vi phạm Hiệp định Paris 1973. Họ cũng tái khẳng định nỗ lực của CPCM trong việc giải quyết những xung đột nội bộ (internal affairs) của miền Nam Việt Nam với chính quyền Sài Gòn-VNCH bằng phương pháp hòa bình nhưng bất thành, cũng như lên án VNCH đã phá vỡ Hiệp định 1973 bằng vũ lực.

Quốc gia Cộng hòa Miền Nam Việt Nam: riêng biệt và độc lập trong 15 tháng

Ngay khi VNCH thua trận vào ngày 30/4/1975, CPCM đã lập tức khẳng định tư cách quản lý lãnh thổ miền Nam Việt Nam trước quốc tế bằng việc nêu rõ tính độc lập và quyền tự chủ của mình.

Đơn cử một ví dụ là vào ngày 4/5/1975, bà Nguyễn Thị Bình, với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao của chính phủ Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (Republic of South Vietnam) – là tên gọi chính thức tại LHQ – đã gửi thư đến LHQ và nêu rõ tính độc lập và quyền tự chủ của CHMNVN, đồng thời tuyên bố tư cách thừa kế chính quyền VNCH tại LHQ và tại các tổ chức quốc tế, cũng như các định chế tài chính quốc tế.

Ngay tại Việt Nam, ngày 4/5/1975, báo Nhân Dân đã đăng thông báo về việc CPCM thành lập Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định để tiếp quản thành phố này.

Tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định tổ chức họp báo quốc tế ngày 8/5/1975. Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.

Ngày 15/7/1975, ông Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch nước CHMNVN, đã gửi điện tín đến Tổng thư ký LHQ kèm theo đơn xin gia nhập LHQ. Cùng thời điểm đó, VNDCCH cũng nộp một đơn riêng xin gia nhập LHQ.

Rất rõ ràng là ngay sau ngày 30/4/1975, cả VNDCCH ở miền Bắc và CHMNVN ở miền Nam đã khẳng định một lần nữa trước quốc tế rằng họ là hai quốc gia độc lập.

Phản ứng quốc tế trước sự kiện 30/4/1975 cũng ủng hộ lập luận trên. Đó là hầu hết các quốc gia đều cho rằng CPCM đã thay thế  VNCH để quản lý quốc gia Nam Việt Nam, tức là một sự thay đổi chế độ (change of government) tại miền Nam.

Tính chính danh của hai quốc gia Nam-Bắc Việt Nam trên phương diện công pháp quốc tế trong giai đoạn 4/1975-7/1976 được thể hiện qua tuyên bố của chính phủ Úc vào tháng 10/1975:

“Việc thống nhất giữa Bắc và Nam Việt Nam hiện tại vẫn chưa xảy ra, và như thế vẫn có hai nhà nước tiếp tục vận hành riêng biệt với nhau. Sự hiện diện của hai nhà nước riêng biệt (tại Việt Nam) đã được ít nhất 75 quốc gia công nhận. Việc vận hành riêng biệt cũng như sự chấp nhận bởi cộng đồng quốc tế đối với hai quốc gia này, VNDCCH và CHMNVN, được thể hiện rõ qua việc họ tham gia vào tổ chức WHO và WMO với tư cách là hai quốc gia thành viên khác nhau tại thời điểm này.”

Quốc gia CHMNVN chính thức chấm dứt tồn tại vào ngày 2/7/1976 khi họ hợp nhất với VNDCCH thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
1954-1975: Quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam như thế nào
Thể chế nào mới thật sự đại diện cho Việt Nam? Câu chuyện vốn không hề ngã ngũ vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký kết.
Hiệp định Paris và Nhân quyền: Điều khó nói của ‘bên thắng cuộc’
Nếu có một điều bạn nên quan tâm trong Hiệp định Paris thì đó là Điều 11.

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.