Tinh thần tự do: Hãy là ngọn đèn cho chính mình

Trong thời kỳ Duy Tân Minh Trị cuối thế kỷ 19, Nhật Bản đã đi lùng sục và dịch hàng loạt sách chính trị, luật, kinh tế của phương Tây. Tác phẩm “Bàn về tự do” (On Liberty) của triết gia người Anh John Stuart Mill (xuất bản lần đầu năm 1859) được một giáo […]

Quán cafe Tự Do ở Hà Nội. Ảnh: REUTERS/Kham.
Quán cafe Tự Do ở Hà Nội. Ảnh: REUTERS/Kham.

Trong thời kỳ Duy Tân Minh Trị cuối thế kỷ 19, Nhật Bản đã đi lùng sục và dịch hàng loạt sách chính trị, luật, kinh tế của phương Tây. Tác phẩm “Bàn về tự do” (On Liberty) của triết gia người Anh John Stuart Mill (xuất bản lần đầu năm 1859) được một giáo sư Khổng giáo tên là Keiu Nakamura tự dịch sang tiếng Nhật và xuất bản năm 1872. Khi đó, tiếng Nhật thiếu trầm trọng các từ, ngữ tương ứng với các khái niệm triết học, chính trị trong tiếng Anh, ông phải vật lộn với việc tạo ra thêm các từ mới và bổ sung thêm chú giải để giải thích cho độc giả Nhật hiểu.

Nước Nhật đã làm quen với các khái niệm “tự do”, “cá nhân” như thế.

Kể từ đó tới nay, đã có thêm ít nhất tám bản dịch tiếng Nhật khác của “On Liberty”, biến tác phẩm này trở thành một trong những tác phẩm có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nước Nhật hiện đại. Hai năm sau khi bản dịch đầu tiên ra đời, Phong trào Tự do và Quyền con người cũng được khởi xướng trên khắp nước Nhật.

Ở nước ta, mãi đến năm 2005, tức là 146 năm sau khi “On Liberty” ra đời, tác phẩm này mới được dịch và xuất bản với số lượng khiêm tốn vài ngàn bản in. Nhà xuất bản Tri Thức tiên phong trong nỗ lực này.

Sự khác biệt trong việc đón nhận quyển sách kinh điển bàn về tự do giữa Việt Nam và Nhật Bản cho thấy nhiều điều về sự khác biệt giữa tư duy tự do của người Nhật Bản và Việt Nam.

Tinh thần tự do trong suy nghĩ và độc lập trong tư duy của người dân Nhật Bản cao hơn người dân Việt Nam dẫn đến hệ quả tất yếu là sự sáng tạo vượt trội của người Nhật Bản trong các lĩnh vực của đời sống so với Việt Nam. Độc giả Luật Khoa có thể nhìn thấy sự tự do trong tư tưởng của người Nhật Bản thông qua các bộ truyện tranh nổi tiếng như Đô-rê-môn, “7 viên ngọc rồng”, “Thám tử Conan”… Thật khó để các hoạ sĩ truyện tranh bay bổng sáng tạo khi trong suy nghĩ vẫn còn bị kìm kẹp.

Truyện tranh phản ánh một thế giới bay bổng, đầy trí tưởng tượng của trẻ con. Đó là nơi mà trẻ con được thả sức thỏa mãn trí tưởng tượng đầy tính sáng tạo của mình. Nhà vật lý học phát minh ra thuyết tương đối Albert Einstein từng nói: “Tôi đủ chất nghệ sĩ để tự do vẽ theo trí tưởng tượng của tôi. Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức là hạn chế, còn trí tưởng tượng bao quanh khắp thế giới”. Bạn chẳng thể nào tưởng tượng được nếu không có được tự do. Để có được tự do cá nhân thì bạn phải sống trong một xã hội tôn trọng quyền tự do cá nhân của mỗi người. Xã hội bạn đang sống có tôn trọng tự do hay không quyết định rất lớn suy nghĩ của cá nhân bạn có được tự do không.

Có được tự do, mỗi công dân trong xã hội sẽ làm việc bằng động lực nội tại (động lực bên trong của mỗi cá nhân), từ đó sẽ có được sự sáng tạo, xây dựng được tinh thần làm việc kỷ luật, nghĩa là tự khép mình vào kỷ luật để thực hiện công việc mình yêu thích chứ không phải giả vờ kỷ luật bởi người khác buộc mình làm như thế.

Một minh chứng có thể hơi cực đoan và có thể làm một số bạn đọc khó chịu nhưng thể hiện rõ nét sự khác biệt trong suy nghĩ của người Nhật Bản và Việt Nam đó là mức độ chấp nhận của xã hội đối với ngành công nghiệp phim người lớn. Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng mức độ tự do, cởi mở của xã hội Nhật Bản cao hơn của Việt Nam rất nhiều. Ví dụ điển hình là phim JAV (Japanese Adult Video) nghĩa là phim người lớn Nhật Bản. Thật khó tưởng tượng rằng ở Việt Nam xã hội lại chấp nhận những bộ phim người lớn do người Việt Nam đóng. Để tồn tại và phát triển cả một nền công nghiệp phim người lớn mang lại lợi nhuận cao, có tầm ảnh hưởng toàn cầu, cả xã hội phải thấm nhuần tinh thần tự do.

Nhiều người sẽ phản đối ngành công nghiệp phim người lớn vì cho rằng nó sẽ làm hư hỏng cả một thế hệ trẻ, phá huỷ thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Nhìn lại Nhật Bản, quốc gia có nền công nghiệp phim người lớn phát triển nhưng thế hệ trẻ của họ vẫn có được tư cách đạo đức tốt thể hiện qua chất lượng sản phẩm “Made in Japan”, qua lối sống hàng ngày, và thuần phong mũ tục của Nhật Bản được phổ biến khắp thế giới như hoa anh đào, ẩm thực Nhật Bản, áo Kimono cho thấy lo ngại về việc thả lỏng tự do quá mức làm hư hỏng các thế hệ trẻ là không có cơ sở.

Xã hội Việt Nam có một đặc tính kéo cả dân tộc bị thụt lùi đó là tư duy theo số đông. Người Việt Nam ít có tinh thần khoan dung đối với những suy nghĩ không thuộc về số đông. Khi có ai đó sáng tạo ra một hệ thống chữ viết mới khác với hệ thống chữ viết hiện hành, người Việt Nam sẵn sàng “múa phím” để “ném đá” người đó mặc dù phát minh đó chẳng gây hại gì cho bất kỳ cá nhân nào.

Sự khích lệ, động viên trước những phát minh mới hầu như không có ở xã hội Việt Nam, đặc biệt là với những phát minh đi ngược lại với suy nghĩ của phần đông xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam chưa có giải Nobel nào dành cho các nhà khoa học, nhà văn (ngoại trừ giải Nobel Hòa bình dành cho Lê Đức Thọ cùng với Henry Kissinger vào năm 1973 nhưng ông đã từ chối nhận giải). Để đoạt giải Nobel cần có một tinh thần tự do để phát minh ra những thứ chưa ai từng nghĩ tới, phát hiện ra những quy luật chưa ai từng nghĩ ra.

Vương quốc Anh, quốc gia mà John Stuart Mill sinh ra và trưởng thành, có tinh thần tự do cao độ, cũng là quốc gia đã sản sinh ra thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith, tư tưởng kinh tế học ủng hộ cho tự do kinh tế. Anh quốc cũng là một đế quốc mà đỉnh điểm khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”, đây là đế quốc hùng mạnh nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.

Chính tinh thần tự do đã khai mở tiềm lực trong bản thân của mỗi cá nhân của dân tộc Anh, dân tộc Nhật, biến các quốc gia đó từ những quốc gia nhỏ bé trở thành những đế chế hùng mạnh của thế giới. Tầm vóc của một quốc gia lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào dân số, diện tích mà phụ thuộc vào quốc gia đó có tinh thần tự do hay không. Nhờ có tinh thần tự do mà nước Anh, một vương quốc nhỏ bé có thể đánh thắng được Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn, có dân số lớn hơn nhiều. Cũng nhờ có tinh thần tự do mà Hong Kong phát triển rực rỡ khi trở thành thuộc địa của Anh, tinh thần tự do đó vẫn tiếp tục được thể hiện trong phong trào Dù Vàng.

Dân tộc Việt Nam có thể học tập con đường mà dân tộc Anh, Nhật và cả Mỹ đã đi qua bằng cách học tập tinh thần tự do để khai mở tiềm năng mạnh mẽ trong mỗi con người Việt Nam.

Cuốn sách “On Liberty” (Bàn về tự do), sau khi được xuất bản lần đầu tiên tại Anh năm 1859 đã trở thành một tác phẩm kinh điển khi thảo luận về “quyền của các cá nhân trong mối quan hệ của họ với cộng đồng và xã hội” (lời giới thiệu “Bàn về tự do” của GT. TS Nguyễn Trọng Chuẩn).
Việt Nam biết đến “Bàn về tự do” của Mill rất muộn nếu so với Nhật Bản. Để đuổi kịp và vượt qua Nhật Bản, chúng ta cần xây dựng một không gian tự do hơn nữa trong tất cả các mặt của đời sống từ chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, xã hội. Ở đâu có tự do, ở đó có phát triển. Nơi nào thiếu tự do, nơi đó kém phát triển. Để xây dựng đất nước phồn vinh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi cá nhân phải tỉnh thức để tìm kiếm con đường tự do cho chính mình. “Hãy là ngọn đèn cho chính mình”.


Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.