Con tin của tin tức
Năm 1850, Paul Julius Reuter dùng chim bồ câu để chuyển tin tức từ Đức sang Bỉ. Sáng kiến này
Những tín hiệu độc tài đã bị phớt lờ vì một thứ tâm lý chính trị phổ biến: thiên kiến xác nhận (comfirmation bias).
Myanmar giờ đây không phải là cái kết đẹp mà chúng ta từng kỳ vọng.
Khi đảng của Aung San Suu Kyi lên nắm quyền hồi năm 2015, người ta tung hô bà như một vị thánh, một biểu tượng đã chịu đựng muôn vàn khổ đau để dẫn dắt người dân từ thể chế độc tài sang dân chủ.
Tổng thống Barack Obama ca ngợi bà. Hillary Clinton ôm chầm lấy bà giữa công chúng. Lãnh đạo phe đa số trong Thượng viện Hoa Kỳ, Mitch McConnell, từng so sánh bà với Gandhi.
Vậy mà giờ đây, bà Aung San Suu Kyi, nhà lãnh đạo trên thực tế (de facto) của Myanmar, lại là mục tiêu công kích trên toàn thế giới. Ấy là bởi bà đã chọn đứng về phía quân đội Myanmar khi lực lượng này tiến hành một chiến dịch giết chóc, hãm hiếp và tra tấn sắc dân Rohingya thiểu số.
Dẫu danh tiếng của bà đổ ngã một cú ngoạn mục, song thực ra nó lại là một câu chuyện “thường ngày ở huyện”. Các nhà lãnh đạo phương Tây quen tán thưởng những cá nhân, thường là những nhà hoạt động có nhiều hy sinh lớn lao, như thể họ là chìa khóa vạn năng để giải quyết những vấn đề của các nền độc tài hay các nền dân chủ non trẻ yếu ớt.
Khi sốt sắng kiếm tìm một giải pháp đơn giản cho cái vấn đề thay đổi chính trị đầy phức tạp, các nhà lãnh đạo phương Tây thường bỏ qua những khiếm khuyết của những người anh hùng ấy. Họ thường không nhìn ra những thách thức mà các vị anh hùng phải đối mặt khi lên nắm quyền. Và họ giả định rằng quốc gia là sản phẩm của nhà lãnh đạo, trong khi thực tế thì luôn ngược lại.
Tu viện Ywama ở Yangon, một trong những nơi ủng hộ phong trào Phật giáo dân tộc Ma Ba Tha. Bà Aung San Suu Kyi từng nói vào năm 2013 rằng người dân theo đạo Phật lo sợ “bá quyền Hồi giáo toàn cầu”. Ảnh: Adam Dean/The New York Times.
Những dấu hiệu cảnh báo
Một nhà khoa học chính trị của trường Đại học Colgate là Danielle Lupton nhận xét rằng “Chúng ta cứ thần tượng những vị lãnh đạo nước ngoài, còn không thì lại ác quỷ hóa họ”.
Đôi khi lý do đơn thuần là vì mục đích chính trị. Tuy nhiên Luton tin rằng những nhận định đơn giản như thế có gốc gác sâu xa từ một hiện tượng tâm lý học. Điều đó khiến cho người ta khó tránh khỏi thiên kiến, và lại càng khó mà thay đổi quan điểm của họ.
“Trong tâm lý học chính trị, có một khái niệm gọi là thiên kiến xác nhận (confirmation bias): bạn có sẵn một niềm tin từ trước về một kết quả nào đó, hay như trong trường hợp này là liệu một người là tốt hay xấu.” Lupton nói.
Thiên kiến xác nhận dẫn dắt con người ta một cách vô thức. Nó khiến người ta chỉ chọn lựa tiếp nhận những thông tin nào ủng hộ cho các niềm tin sẵn có của họ – và khiến cho người ta phớt lờ những dữ kiện đi ngược lại niềm tin.
Khái niệm này giúp giải thích tại sao những người Tây phương từng tôn vinh bà Aung San Suu Kyi lại có vẻ đã không nhìn ra được những dấu hiệu cho thấy vị chính trị gia này không phải là hình mẫu của những giá trị tự do dân chủ.
Ví dụ, trong một cuộc phỏng vấn trên BBC năm 2013, bà đã trả lời qua loa một cách sống sượng khi được hỏi về vấn đề bạo lực dâng cao chống lại người Rohingya. Bà nói rằng cả những người dân theo đạo Phật cũng đang bị buộc phải bỏ nhà đi, và nỗi sợ hãi là thứ “hai bên đều có”.
Trước câu hỏi tại sao phần đa bạo lực lại chỉ ảnh hưởng đến người theo đạo Hồi thì bà trốn tránh. Bà nói rằng người dân theo đạo Phật đang phải sống trong nỗi sợ hãi “bá quyền Hồi giáo toàn cầu”.
Dù những chuyện kiểu này xuất hiện ngày một nhiều khi Suu Kyi ngày càng nổi danh, nhưng chúng lại mâu thuẫn với hình ảnh thánh thiện của bà. Vì thế, người ta ít chú ý tới chúng.
Giới lãnh đạo phương Tây đã tiếp tục ủng hộ bà, giúp bà xây dựng một tính chính danh trong khi họ gây sức ép bắt chính quyền quân sự Myanmar phải tổ chức các cuộc bầu cử, với kỳ vọng là bà Aung sẽ lên lãnh đạo đất nước.
“Thiên kiến xác nhận mạnh mẽ đến nỗi làm chúng ta có thể phớt lờ những thông tin mâu thuẫn, thậm chí chúng ta còn không nhận ra điều đó”, Lupton giải thích thêm.
Một số chuyên gia khác cho rằng nó có thể dẫn đến một thứ thiên kiến chính trị đáng kể hơn nhiều, rằng một hệ thống chính trị sẽ có những đặc điểm, phẩm chất của người lãnh đạo hệ thống đó. Trên thực tế, thường thì điều ngược lại mới đúng.
Các thiên kiến nói trên khiến cho người ta dễ dàng kết luận rằng nếu các cá nhân anh hùng có thể chiến thắng trong cuộc chiến quyền lực, thì họ hoàn toàn có thể mang đến dân chủ và tự do.
“Chúng ta luôn kiếm tìm một vị lãnh đạo mà chúng ta có thể tin cậy để họ trở thành đối tác, vậy nên chúng ta thường ‘bấm nút thông qua’ nhanh nhanh một ai đó để còn quay qua lo lắng cho những việc khác”, theo Elizabeth Saunders, một nhà khoa học chính trị trường Đại học George Washington chuyên nghiên cứu về chính sách ngoại giao Hoa Kỳ.
Cựu Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai tại Kabul năm 2016. Chính phủ Hoa Kỳ từng tôn xưng ông này như là vị lãnh đạo dân chủ thay thế chính quyền áp bức của Taliban. Ảnh: Adam Ferguson/The New York Times.
Một hàng dài những kẻ cứu thế “hụt”
Câu chuyện đơn giản về một vị lãnh tụ cứu nhân độ thế xuất hiện để thay đổi cả một quốc gia thường hiếm khi xảy ra.
Chính phủ Mỹ từng tôn xưng nhà lãnh đạo người Afghanistan là ông Hamid Karzai như một vị lãnh đạo dân chủ thay thế chính quyền áp bức của Taliban. Nhưng Washington đã phải thất vọng khi nhận ra rằng ông Karzai, thay vì vượt ra khỏi những trò tham nhũng và chủ nghĩa bè phái vốn tràn ngập đất nước Afghanistan, lại quay qua xây dựng cho mình một chế độ mang đầy những vấn nạn đó.
“Nếu bạn tôn một vị lãnh đạo lên làm một hình mẫu đạo đức, bạn lại có thể đang giúp người lãnh đạo đó củng cố quyền lực, và điều này có thể gây ra những kết quả ngoài ý muốn”, theo Saunders.
Tại Rwanda, Tổng thống Paul Kagame đã được suy tôn là vị cứu tinh của đất nước khi ông này thắng cử, với sự ủng hộ từ phương Tây, sau thảm họa diệt chủng năm 1994.
Thế nhưng, tuy có thành công trong việc giảm thiểu đói nghèo, Kagame đã tự tỏ ra là một nhà lãnh đạo chuyên chế. Các chính trị gia đối lập thường bị bỏ tù, phải trốn ra nước ngoài, hoặc bị giết hại. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã có báo cáo về nạn bắt giam và tra tấn rộng khắp trong quân đội tại Rwanda.
Cũng như từng có nhiều người đã dễ dàng ủng hộ Phong trào Giải phóng Dân tộc Sudan, khi nó còn là một phong trào nổi loạn chống lại nhà lãnh tụ độc tài Omar Hassan al-Bashir, người bị kết án diệt chủng tại Darfur. Tuy nhiên, sau khi các sỹ quan của phong trào này cùng các đồng minh lên nắm quyền tại đất nước Nam Sudan độc lập mới ra đời, thì họ lại khiến cho cả đất nước chìm vào nội chiến.
Không chỉ có giới lãnh đạo phương Tây mới hay có những phán đoán sai lầm như thế. Vào những năm 1960 và 1970, giới hoạt động nhân quyền toàn thế giới từng ca ngợi những lãnh đạo đòi độc lập chủ quyền như Robert Mugabe của Zimbabwe. Nhiều vị lãnh đạo kiểu vậy sau này lại trở thành những kẻ độc tài.
Cũng có các trường hợp ngoại lệ, như Nelson Mandela, vị tổng thống hậu-Apartheid đầu tiên của Nam Phi. Nhưng những người như Mandela không nhiều, và thành công của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên khác. Đến giờ, họ vẫn còn ngạc nhiên về những yếu tố bí ẩn thần kỳ đó. Và cả những nhà hoạt động vốn đang mất tinh thần tại Myanmar cũng đang ngỡ ngàng như vậy.
Bà Aung San Suu Kyi tại Nhà Trắng năm 2016. Ảnh: Al Drago/The New York Times.
“Đặc tính của một nhà độc tài”
Aung San Suu Kyi không phải là Kagame hay Mugabe, nhưng chỉ sau gần 20 tháng đầu tiên cầm quyền, bà đã tỏ ra có biểu hiện độc tài.
Vừa giành được quyền lực, bà Aung nhanh chóng đẩy ra rìa các nhà hoạt động và các nhóm dân sự đã giúp bà giành quyền lực.
“Bà ấy chỉ lắng nghe những ai thân cận với mình,” theo Yan Myo Thein, một nhà hoạt động của nhóm đấu tranh dân chủ 88 Generation và là một cựu tù chính trị. Ông cho rằng nhóm người thân cận với bà Aung cư xử như một “đám cuồng cá nhân chủ nghĩa”.
“Đó là một biểu hiện độc tài,” ông nói.
Trong giai đoạn thế giới còn đang bận tán thưởng bà Aung, tại Myanmar đã có những người nhìn ra những chỉ dấu ngày càng rõ rệt, rằng bà đang củng cố quyền lực và áp chế những ai có ý kiến phê bình.
“Cho dù họ tự xưng rằng mình là biểu tượng của dân chủ, họ lại muốn tập trung hóa và quản lý mọi thứ,” Kyaw Thu, người lãnh đạo nhóm dân sự Paung-Ku, nói về chính quyền dân cử đang nắm quyền tại Myanmar. “Những ai không ủng hộ nghị trình của họ thì bị xem là kẻ thù”, Kyaw nói thêm.
Hàng tá người Myanmar đã bị kết tội dưới một điều luật có mục đích ngăn chặn các phê phán nhằm vào chính phủ. Tình trạng này làm người ta nhớ lại thời kỳ giới quân sự độc tài bỏ tù các nhà bất đồng chính kiến.
Aaron Connelly, một nhà phân tích chính trị của Viện Lowry tại Sydney (Úc) nhận định rằng các chính sách áp bức này “là đặc trưng cho cách cầm quyền của đảng Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) tại Myanmar.”
Mà thậm chí khi chưa nói gì đến quan điểm của bà Aung về người Rohingya, thì bà “vẫn chưa hề cư xử như một nhà lãnh đạo có tư tưởng tự do”, Connelly nhận xét.
Một cuộc biểu tình trong tháng qua tại Yangon nhằm ủng hộ chính sách của bà Aung San Suu Kyi đối với khủng hoảng người thiểu số Rohingya. Ảnh: Adam Dean/The New York Times.
Bài học lớn cho mọi người?
Trong khi giới làm chính sách có thâm niên hoạt động lâu năm có vẻ vẫn đang tự tin với thói quen phán xét của mình, thì giới trẻ hơn đã bắt đầu đặt câu hỏi về việc: liệu có phải cộng đồng thế giới, sau quá nhiều thất vọng, đáng ra đã phải học được một bài học nào đó?
“Kịch bản này lặp đi lặp lại quá nhiều để có thể phớt lờ”, Tim Hirschel-Burns, một nhân viên Peace Corps tại Benin, viết trên blog cá nhân của mình.
Theo Tim, có lẽ cái cách cải tạo một quốc gia đang gặp khó khăn như hiện tại, bằng cách lắp vào quốc gia đó một vị lãnh đạo có triển vọng, là một mô hình ngược ngạo. Và có lẽ thay đổi chỉ đến khi nó diễn ra từ dưới lên trên, cho dù cách thay đổi này khó khăn, bề bộn và cần nhiều thời gian hơn.
“Người dân tại những nước đó, cũng như chúng ta, phần nhiều là sản phẩm từ môi trường của họ”, Tim viết.
Đối xử với bà Aung San Suu Kyi như thể bà không dính dáng gì đến những vấn đề của Myanmar sẽ khiến thế giới nhìn nhận bà như “một con người đạo đức cao thượng và dũng cảm hơn chính cái lực lượng chính trị mà bà đại diện”, Tim phân tích thêm.
Ngay cả những lãnh đạo thường nói những điều đúng đắn và thể hiện những ý định tốt đẹp thường cuối cùng vẫn có khuynh hướng phản ánh cái hệ thống mà họ đã trưởng thành trong nó. Nếu bản thân hệ thống đó vẫn còn hư hỏng, thì có thể coi là sòng phẳng khi ta phê phán cái dở của những người lãnh đạo, song không thể mong đợi các vị lãnh đạo đó vượt lên trên chính hệ thống của họ.
Nói đi thì cũng nói lại, có thể bà Aung San Suu Kyi đang xây dựng một phiên bản chính quyền dân chủ theo đúng đường lối mà nhiều công dân Myanmar mong muốn.
Một khảo sát năm 2015 của Asia Barometer cho thấy phần lớn người được khảo sát tại Myanmar có quan điểm chống đối các hình thức kiểm soát nhánh hành pháp của đất nước. Nhiều người Myanmar tin rằng giới lãnh đạo tôn giáo nên có vai trò trong việc làm luật và quyền công dân nên được gắn liền với tôn giáo. Mức ủng hộ cho một nhà cầm quyền mạnh tay là khá cao, trong khi ủng hộ cho quyền của người thiểu số thì lại thấp.
“Người dân mong muốn dân chủ theo nghĩa là họ mong muốn chấm dứt tình trạng độc tài, và lãnh đạo phải là người được dân chúng bầu chọn”, theo Thant Myint-U, một nhà sử học và cựu quan chức Liên Hợp Quốc. “Nhưng cái ước muốn đó rất khác với việc chấp nhận cả một lô một lốc các giá trị tự do, đặc biệt khi các giá trị đó có liên quan đến các vấn đề như màu da, chủng tộc, hay bình đẳng giới.”
Câu hỏi cần đặt ra lúc này là, có bao nhiêu phần trong nỗi giận dữ mà phương Tây đang đổ vào Suu Kyi, thể hiện qua các hành động như kêu gọi tước giải Nobel Hòa Bình của bà, có nguyên nhân sâu xa từ nỗi mặc cảm hối hận do đã từng ủng hộ bà Aung góp phần giúp bà giành được quyền lực.
Trong một bài viết gần đây, một giáo sư của Viện Griffith Asia là Andrew Selth viết rằng “Nếu danh tiếng của Suu Kyi có trượt quá xa thì cũng là do cộng đồng quốc tế đã tâng bà lên quá cao.”
Amanda Taub viết từ Washington, và Max Fisher viết từ Yangon, Myanmar. Wai Moe cũng đóng góp cho bài báo này từ Yangon.