Hàng rong và chính trị của đường phố

Ảnh: Pinterest/Chưa rõ nguồn.
Ảnh: Pinterest/Chưa rõ nguồn.

Hàng rong (street vendor) là một đặc sản của nền kinh tế cá thể và hộ gia đình. Di động và uyển chuyển, hàng rong là nguồn sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình Việt Nam. Nhưng đi cùng đó là những tranh cãi gay gắt về vai trò xã hội, tiêu cực cảnh quan và đối thoại giàu nghèo.

Cần hạn chế cái nhìn tiêu cực về hàng rong

Một trong những sai lầm dễ gặp nhất khi bàn về các gánh hàng rong là sự ghét bỏ nặng lời của một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.

“Cứ viện cái nghèo ra để vi phạm pháp luật” – họ thường nói.

Quan điểm này không sai. Đúng là chúng ta không thể viện dẫn hiện trạng kinh tế của một cá nhân để giải oan cho mọi hành vi mà người này thực hiện. Mọi việc nghe thật dễ dàng. Cứ ai bán hàng rong là xử lý, bắt gọn. Cảnh quan đô thị chẳng mấy chốc mà được bảo toàn.

Hiện thực không đơn giản như vậy. Nhìn từ góc độ quản lý vĩ mô, bất kỳ chính quyền nào cũng không thể phủ nhận vai trò kinh tế mà các gánh hàng rong mang lại.

Tại Việt Nam, chỉ mới vào năm 2017 đây thôi, các gánh hàng rong lộn xộn, manh mún nói trên đóng góp đến hơn 10% tổng nền kinh tế Việt Nam. Đúng vậy, bạn đọc không sai, những chuyến xe đẩy, những gánh hàng “bạ đâu đậu đấy” chiếm 1/10 giá trị của nền kinh tế vài trăm tỷ Mỹ kim của Việt Nam.

Không chỉ vậy, đối mặt với làn sóng nhập cư hàng triệu người mỗi năm tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng… hàng rong tiếp tục là một trong những “ngành” tuyển dụng nhiều lao động nhất. Điều này càng dễ hiểu hơn khi cân nhắc trình độ học vấn và năng lực tài chính của đại đa số người nhập cư.

Không phải không có nguyên do mà chính phủ Việt Nam khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu lao động. Tương lai công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam vẫn còn rất xa vời. Vì vậy, năng lực tạo việc làm công nghiệp đại trà của nền kinh tế Việt Nam rất thấp. Và khi mà nền kinh tế hàng rong còn giúp cung cấp hàng trăm ngàn việc làm tạm thời với nguồn thu nhập đủ để một bộ phận dân cư thoát khỏi đói nghèo, một nước đi sai trong “chính sách vỉa hè” của chính quyền đồng nghĩa với việc tổn hại cả một chuỗi sinh nhai phụ thuộc lẫn nhau của hàng triệu người lao động tự do.

Đây cũng không phải bí mật khoa học gì mới được phát hiện. Theo Giáo sư  Dorothy Solinger, Đại học California, phân tích: những chính quyền cộng sản châu Á từ trước đến nay luôn xem kinh tế đường phố là một biện pháp đối phó cầm chừng khả dĩ nhất với tình trạng thất nghiệp của quá trình đô thị hóa.

Muốn loại trừ kinh tế vỉa hè, hệ quả của nó vượt khỏi mọi tưởng tượng của loại diễn ngôn “trật tự pháp luật” hay “cảnh quan đô thị”. Đến cuối cùng, có trời mới biết xã hội sẽ thế nào khi vài triệu người lâm vào cảnh thất nghiệp. Và khi ấy, những nhân viên văn phòng và các nhà chính trị “salon” lên gân nắn cổ nền kinh tế vỉa hè sẽ có nhiều thứ để lo hơn là “trật tự” và “cảnh quan”.

Một gánh đậu hũ trên hè phố Hội An. Ảnh: Dân Trí.
Một gánh đậu hũ trên hè phố Hội An. Ảnh: Dân Trí.

Chính trị của đường phố

Những lập luận trên kỳ vọng rằng bạn đọc chấp nhận tầm quan trọng khách quan của nền kinh tế hàng rong. Song mục tiêu chính không phải để ủng hộ các hoạt động mua bán thiếu tổ chức và lấn chiếm vỉa hè, lòng đường.

Sự trong lành và thoáng đãng của đường phố có vai trò văn hóa riêng của nó. Không chỉ là bộ mặt của một quốc gia, một thành phố, nó còn phản ánh lý tưởng, khát vọng và tầm nhìn của chủ nghĩa đô thị hiện đại (modern urbanism). Nó cũng có thể gây ảnh hưởng đến tinh thần và quan điểm của công dân về quốc gia, về không gian sống và an sinh xã hội.

Vỉa hè, qua một góc nhìn mới, trở thành không gian công cộng của nhân quyền, là không gian sản sinh các thói quen mới, giá trị mới, cách tư duy mới và thái độ mới cho công dân. Nếu chúng ta để mặc hiện trạng tư nhân hóa không gian chung (mà cụ thể ở đây là các hộ kinh doanh hàng rong), bất kể vì lý do gì, chúng chắn chắn cản trở sự phát triển về tinh thần của một cộng đồng, một quốc gia.

Đối nghịch giữa “cơm ăn áo mặc” trước mắt và những giá trị trừu tượng vô hình là bài toán khó mà Tiến sĩ Asef Bayat thuộc Đại học Illinois (Hoa Kỳ) gọi là “chính trị của đường phố” (politics of the street). Trong bài viết ngắn ấn tượng từ năm 1997 có tên Un-civil society: The politics of the “informal people”, ông khẳng định nỗ lực tái lập trật tự không gian công cộng của chính quyền và sự bám víu đường phố vì miếng cơm của các nhóm yếu thế tại các quốc gia đang phát triển tạo nên một đặc trưng không lẫn vào đâu được.

Nơi đó, các hàng quán di động nhận được lòng khoan dung vừa phải từ cộng đồng dân cư; đối mặt với một hệ thống pháp luật có phần hình thức, thiếu chiều sâu; cùng quá trình kiểm soát và tái lập trật tự theo kiểu chương, hồi “chiến dịch” qua loa của các lãnh đạo địa phương. Nhưng bất kỳ tác động thiếu tính toán nào mong muốn thay đổi thực trạng sẽ vấp phải những phản ứng chính trị không thể ngờ tới, kể cả khả năng xung đột bạo lực.

Hoạt động bán hàng rong tấp nập ở cả lề đường lẫn vỉa hè Hà Nội. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Hoạt động bán hàng rong tấp nập ở cả lề đường lẫn vỉa hè Hà Nội. Ảnh: Chưa rõ nguồn.

Về con đường đúng đến văn minh đô thị

“Hà Nội ngày nay, New York thế kỷ 18 và Trung Quốc thập niên 80…”, nghiên cứu Street Politics: Street Vendors and Urban Governance in China của Giáo sư Amy Hanser, trường Đại học British Columbia, đưa ra một so sánh thú vị về thực trạng của nền kinh tế hàng rong khắp nơi trên thế giới. “Hàng rong” không phải là một thứ văn hóa ăn sâu bám rễ đặc trưng của bất kỳ nền văn minh nào. Đông hay Tây, ở đâu cũng có thể có.

Nói cho vuông, hàng rong là kết quả đương nhiên của quá trình tập trung dân cư tại các đô thị, nhu cầu tiêu dùng đa dạng, và tình trạng thất nghiệp ở một bộ phận công dân. Kiểm soát chúng, do đó, không nằm ngoài mục tiêu chung là tối đa hóa lợi ích của toàn xã hội.

Trung Quốc cũng đã trải qua một thời kỳ tương tự. Kinh nghiệm của quốc gia châu Á này có thể có ích cho Việt Nam.

Sau khi giành được toàn bộ Trung Quốc đại lục vào năm 1949, chiến dịch dẹp loạn kinh tế đường phố bằng vũ lực được chính quyền tiến hành. Điều này hiển nhiên rất dễ thi hành vào thập niên 1950. Khi đó, các gánh hàng rong bị các nhà Marxist Trung Quốc gọi là “những cái đuôi của chủ nghĩa tư bản” (tails of capitalism), và nghiễm nhiên trở thành kẻ thù giai cấp.

Đến thập niên 1980, nền kinh tế Trung Quốc cởi mở hơn và kinh tế hàng rong bùng nổ. Đi kèm đó là nhu cầu quản lý và chỉnh đốn cảnh quan đô thị.

Họ đã từng kỳ vọng diệt gọn kinh tế hàng rong.

Đầu những năm 1990, các nhóm “quản thành” (城管 – chengguan) được thành lập.  Họ quần thảo kẽ ngách các con đường, các khu phố của những đô thị Trung Quốc, bắt người, tịch thu tài sản và thậm chí là nhận “bảo kê” từ những người bán hàng rong. Không mất quá nhiều thời gian để người dân lẫn các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc nhận thấy trao quyền sinh sát trên đường phố cho các nhóm “quản thành” không khác gì với việc tạo nên một băng đảng mafia đời mới mang danh nghĩa nhà nước. Tư duy hiện tại của Việt Nam với các “tổ, đội quản lý trật tự đô thị” có vẻ không khác mấy với Trung Quốc cách đây vài thập kỷ; dù người viết không đủ dữ liệu để bình luận khách quan về các tiêu cực quản lý đô thị tại Việt Nam đương đại.

Khoảng những năm 2005, chính quyền trung ương lẫn địa phương tại Trung Quốc bắt đầu thử vận may với những biện pháp mềm khác.

Điều trước tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc làm là cho phép môi trường thảo luận về hàng rong và kinh tế hàng rong được thoải mái hơn. Năm 2005 chỉ có 27 bài viết, bài nghiên cứu về hàng rong, đến năm 2011 đã có đến 800 bài.

Một số chính sách thực tiễn cũng bắt đầu được thử nghiệm.

Tại Trung Quốc thời điểm này (cũng như Việt Nam hiện nay), nhiều người ủng hộ việc xây dựng những khu hàng quán, quà vặt phức hợp và tập trung. Nhưng tham vọng này nhanh chóng dẫn đến những kết quả không mong muốn. Các khu tập trung mới không phải cái nào cũng thuận tiện cho việc lưu thông và bán hàng. Cùng lúc đó, do nhiều vấn đề liên quan đến quy hoạch đất đai và chi phí mặt bằng, các khu phức hợp cũng thường bị đẩy ra vùng ven, với diện tích di chuyển và mua bán rất hạn chế, gây khó khăn cho người mua.

Đến nay, chính quyền nhiều địa phương Trung Quốc tạm hài lòng với việc phân cấp các khu vực vỉa hè để quản lý.

Một số vùng được xếp vào nhóm cấm tuyệt đối (zero-tolerance). Tại những nơi quan trọng, có ý nghĩa lịch sử hay là khu vực thương mại chuyên nghiệp, hay những nơi thể hiện bộ mặt của thành phố…  mọi hình thức mua bán hàng rong bị cấm triệt để.

Một số vùng khác, nơi vị trí bán hàng được sắp đặt sao cho không gây ảnh hưởng đến người đi bộ hay việc di chuyển của các phương tiện giao thông, việc mua bán hàng rong được chấp nhận. Hiển nhiên, đi kèm theo đó là các yêu cầu về vệ sinh và bảo vệ sự đồng nhất của cảnh quan.

***

Những thông tin và lập luận trên chỉ là một phần rất nhỏ của các nghiên cứu đang sẵn có về quản lý kinh tế vỉa hè và không gian đô thị.

Nhưng chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng nền kinh tế không chính thức (informal economy) tại Việt Nam có vai trò quan trọng hơn rất nhiều những gì người ta tưởng tượng. Và quản lý kinh tế đường phố cần bằng chứng khoa học, thống kê và trên hết là sự kiểm điểm lại về quy hoạch của chính các cấp chính quyền. Tiếp tục “ra quân” với những “chiến dịch” dọn dẹp lòng đường, vỉa hè từ ngày này qua tháng khác cũng giống như có vết thương lở loét mà chỉ uống thuốc giảm đau cầm chừng. Xung đột giữa chính quyền địa phương và những cư dân sinh nhai bằng nền kinh tế không chính thức đo đó sẽ không bao giờ chấm dứt.

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.